Theo phóng viên tại châu Âu, ngày 27/2, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã công bố một danh sách 12 nhóm vi khuẩn mà thế giới phải cấp thiết phát triển các loại thuốc kháng sinh mới để đối phó, vì nguy cơ những vi khuẩn này chống lại các phương pháp điều trị hiện nay là rất đáng lo ngại. Nhóm vi khuẩn nguy hiểm nhất bao gồm các vi khuẩn đa kháng. Dưới đây là danh sách 12 loại vi khuẩn chia thành 3 nhóm xếp theo mức độ nguy hiểm do Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đưa ra ngày 27/2. Nhóm 1: Đặc biệt nguy hiểm Acinetobacter baumannii, kháng carbapenem: Thường tấn công hệ thống nội tạng chứa nhiều chất lỏng và gây ra các bệnh như nhiễm trùng đường tiết niệu. Pseudomonas aeruginosa, kháng carbapenem: Gây ra một loạt triệu chứng và bệnh tật như viêm phổi, nhiễm trùng da, nhiễm trùng mắt. Enterobacteriaceae, kháng carbapenem và cephalosporin thế hệ 3: Gây ra 50% ca nhiễm khuẩn cần nhập viện mỗi năm như nhiễm trùng đường tiết niệu, nhiễm trùng máu. Theo Medical Daily, vi khuẩn trong nhóm này là mối đe dọa lớn nhất đối với sức khỏe con người bởi chúng kháng nhiều loại thuốc. Đặc biệt, chúng chống lại carbapenem vốn đạt hiệu quả cao nhất trong điều trị vi khuẩn kháng thuốc. Như vậy, không có cách nào để điều trị bệnh do vi khuẩn thuộc nhóm 1 gây ra. Chúng dẫn đến tỷ lệ tử vong cao. WHO kêu gọi tăng cường phòng ngừa, kiểm soát các nhiễm khuẩn... WHO kêu gọi tăng cường phòng ngừa, kiểm soát các nhiễm khuẩn... Nhóm 2: Mức nguy hiểm cao Enterococcus faecium, kháng vancomycin: Gây nhiễm trùng vết thương và nhiễm trùng đường tiết niệu. Staphylococcus aureus, kháng methicillin: Chịu trách nhiệm về các bệnh dạ dày hay thường gọi là ngộ độc thực phẩm. Helicobacter pylori, kháng clarithromycin: Thường ảnh hưởng dạ dày và có thể dẫn đến loét, viêm dạ dày. Campylobacter, kháng fluoroquinolone: Gây ra một số bệnh dạ dày và tiêu hóa như tiêu chảy, co thắt, đau bụng. Salmonella spp., kháng fluoroquinolone: Kéo đến các triệu chứng như tiêu chảy, sốt, đau bụng. Neisseria gonorrhoeae, kháng cephalosporin thế hệ thứ 3 và fluoroquinolone: Nguyên nhân nhiễm trùng hệ thống sinh sản và dễ dẫn đến vô sinh nếu không được điều trị. Có thể gây nhiễm trùng mắt. Vi khuẩn trong nhóm này là mối đe dọa lớn nhất đối với sức khỏe con người. Vi khuẩn trong nhóm này là mối đe dọa lớn nhất đối với sức khỏe con người. Nhóm 3: Mức nguy hiểm vừa Streptococcus pneumoniae, không nhạy cảm với penicillin: Gây ra hàng loạt bệnh như viêm phổi, nhiễm trùng tai, viêm xoang. Haemophilus influenzae, kháng ampicillin: Chủ yếu tấn công trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, dẫn đến nhiều chứng bệnh từ nhiễm trùng tai đến nhiễm trùng máu. Shigella spp., kháng fluoroquinolone: Gây các bệnh đường ruột đặc trưng bởi triệu chứng tiêu chảy ra máu. Hiện tại vẫn còn cách để điều trị vi khuẩn nhóm 2 và nhóm 3 nhưng cùng với khả năng biến đổi ngày càng cao, việc chúng kháng toàn bộ thuốc chỉ là vấn đề thời gian. Liệt kê danh sách trên, WHO hy vọng thúc đẩy chính phủ cùng các công ty dược phẩm phối hợp cùng nhau phát triển các loại thuốc mới nhằm bảo vệ con người trước những loại siêu khuẩn đáng gờm. Cập nhật: 28/02/2017Theo VnExpress
Tại Mỹ mỗi năm có hơn 1 triệu ca nhiễm khuẩn huyết, hơn 250.000 ca tử vong - đây là căn bệnh giết chết nhiều người hơn cả ung thư vú, ung thư tuyến tiền liệt và HIV cộng lại. Trước tình hình này, các nhà nghiên cứu vẫn đang gấp rút tìm kiếm liệu pháp chữa trị cũng như nguyên nhân gây bệnh và nổ lực của họ phần nào đã được đền đáp khi nhóm nghiên cứu đến từ đại học California tại San Diego (UCSD) đã có được một công cụ chẩn đoán cho phép nhận diện vi khuẩn trong chỉ vài giờ, rút ngắn đáng kể thời gian chẩn đoán vốn thường mất vài ngày như các phương pháp hiện tại.
Phương pháp của UCSD khai thác 2 loại công nghệ còn mới mẻ gồm microfluidic(vi lỏng hay còn gọi là công nghệ lab-on-chip) và High Resolution Melt (HRM - phân tích nhiệt nóng chảy phân giải cao - một kỹ thuật sinh học phân tử cho phép phát hiện vi khuẩn thông qua một dấu vết mà nó để lại trên chuỗi DNA được gọi là "đường cong nóng chảy").
Nhóm nghiên cứu sử dụng công nghệ microfluidic để phát hiện tất cả các DNA bị vi khuẩn tấn công hiện hữu trong mẫu DNA. Phương pháp thông thường là chọn ra từng DNA một mà họ nghi là nguyên nhân gây viêm và hiển nhiên phương pháp này không hiệu quả, mất nhiều thời gian.
"DNA nhiễm khuẩn có mặt trên mọi thứ và lây nhiễm mọi nơi", Stephanie Fraley cho biết.
Stephanie Fraley - phó giáo sư kỹ thuật sinh học tại UCSD cho biết: "DNA nhiễm khuẩn có mặt trên mọi thứ và lây nhiễm mọi nơi, do đó việc cố gắng tìm ra những DNA liên quan đến nhiễm khuẩn huyết giống như mò kim đáy bể". Fraley từng được trao giải thưởng Burroughs Welcome Fund Career Award cho những công nghệ do chính cô phát triển phục vụ cho công tác chữa trị nhiễm trùng huyết và nghiên cứu hôm nay cũng dựa trên những thành tựu trước đó của Fraley.
Về phương pháp chẩn đoán HRM, ưu điểm của phương pháp này là có thể giúp xác định thành phần di truyền trong một loạt các mẫu thử nhanh chóng và chính xác. Trong nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu đã phân loại kiểu gen cùng lúc 20.000 phản ứng từ 1 ml máu được cho nhiễm vi khuẩn Listeria monocytogenes (lây nhiễm qua thực phẩm) và Streptococcus pneumoniae (vi khuẩn gây các bệnh viêm nhiễm qua đường hô hấp và viêm màng não)
Để thực hiện, trước tiên họ tách tất cả các DNA từ mẫu máu và đưa vào một con chip điện tử cho phép mỗi mảnh mẫu máu có thể tự sinh dựa trên các phản ứng riêng của nó. Mỗi khoang trên con chip chỉ có thể chứa 20 picoliter! Họ đã sử dụng một hỗn hợp hóa học đặc biệt để có thể đưa một lượng rất rất nhỏ máu như vậy vào chip và kỹ thuật này cũng đang chờ được cấp bằng sáng chế. Điều đáng chú ý trong thí nghiệm của USCSD là thông thường, hoạt động phân tích HRM chỉ được thực hiện sau khi hoàn thành kĩ thuật tạo bản sao phân tử có tên gọi là phản ứng trùng hợp chuỗi hay phản ứng khuếch đại gene Polymerase Chain Reaction (PCR - một kỹ thuật nhằm tạo ra nhiều bản sao (khuếch đại) một đoạn DNA mà không cần sử dụng các sinh vật sống như khuẩn E. Coli hay nấm men). Trong trường hợp này, các nhà nghiên cứu phát triển một thuật toán máy tính cho phép họ bỏ qua kỹ thuật PCR và thực hiện phân tích HRM tự động.
Fraley cho biết: "Chưa ai từng phân tích nhiều phản ứng cùng lúc ở tỉ lệ nhỏ như vậy trước đây. Hầu hết các thử nghiệm phân tử trên DNA thường được thực hiện ở tỉ lệ lớn hơn và chỉ có thể tìm kiếm một loại vi khuẩn mỗi lần. Chúng tôi phân tích tất cả các vi khuẩn trong mẫu máu. Đây là một bước tiến rất lớn".
Mục tiêu hiện tại của Fraley và nhóm nghiên cứu là đưa công cụ chẩn đoán này ra khỏi phòng thí nghiệm.
Tiếp theo, các nhà nghiên cứu làm nóng con chip với DNA đã được khuếch đại với mức nhiệt độ tăng dần 0,2 đô C, từ từ khiến DNA nóng chảy. Khi DNA chuỗi xoắn đôi phân tách, các kết nối giữa các chuỗi DNA bị phá vỡ, để lộ những dấu hiệu đặc trưng. Để thu lại dấu hiệu này, nhóm nghiên cứu sử dụng một loại chất nhuộm huỳnh quang đặc biệt có thể liên kết với DNA mạch kép, khiến những dấu hiệu này phát sáng. Khi các chuỗi bị phân rã, chất huỳnh quang trở nên yếu hơn bởi DNA mạch kép không còn để nó bám dính vào.
Từ những dấu hiệu trên, họ có được thứ gọi là "đường cong nóng chảy" của vi khuẩn nhờ quan sát qua kính hiển vi. Đường cong này sau đó được phân tích bằng một thuật toán máy học (machine learning) trước đó đã được nạp 37 loại vi khuẩn khác nhau. Kết quả cuối cùng cho thấy thuật toán này hiệu quả hơn nhiều so với các phương pháp truyền thống với độ chính xác lên đến 99%, trong khi phương pháp thường có tỉ lệ sai sót đến 23%.
Mục tiêu hiện tại của Fraley và nhóm nghiên cứu là đưa công cụ chẩn đoán này ra khỏi phòng thí nghiệm. Trong tương lai, các nhà nghiên cứu sẽ tìm cách thu nhỏ kích thước của hệ thống để có thể sử dụng thuận tiện tại các phòng khám, viện lâm sàng cũng như mở rộng khả năng phát hiện mầm bệnh bao gồm các loại nấm, virus và các gene chống kháng sinh. Thêm vào đó, họ cũng cần thực hiện thêm các nghiên cứu dựa trên mẫu máu từ bệnh nhân thực tế. Fraley hy vọng hệ thống sẽ đến tay các y bác sĩ trong vòng 5 năm tới.
Nhận xét
Đăng nhận xét